2. Xóm Chùa.
Nếu cái xóm nhà thờ của tôi huyên náo nhất làng thì Xóm Chùa lại vắng vẻ, buồn hiu. Nó buồn vì nằm ở cuối làng, giáp ranh với những vùng đất hoang không khai phá. Nó lặng lẽ, hoang vu mà lại còn nhận những âm điệu cốc… cốc… cốc… boong ! và tiếng tụng kinh trầm trầm của sư cô vang lên mỗi tối.
Sở dĩ
được gọi là Xóm Chùa vì ngôi chùa độc
nhất nằm
ở đây. Chùa không nằm trong phạm
vi đồn điền mà nằm sát ranh với những
ngôi nhà công nhân. Chùa ban đầu chỉ là một
mái nhà tranh đơn sơ
của một
sư cô từ miền
Tây về trụ trì để tuyên dương Phật Pháp.
Tôi
nhớ hôm ấy
là một ngày thứ năm. Ngày thứ năm là
ngày học sinh nghỉ học,
nhưng phải lên
trường làm” cỏ ve “. Thật
tình tôi cũng không biết viết thế
nào cho đúng theo tiếng Pháp. Tôi chỉ nhớ
từ cỏ
ve là dùng để diễn tả học
sinh đến
trường làm vệ sinh . Dẫy
cỏ xung quanh, quét dọn
trường lớp và cứ làm theo lời thầy
là được rồi.
Ngày đó mấy chỉ có ông thầy giáo già dạy lớp
nhì kiêm Hiệu trưởng
là có mặt. Đôi khi thầy sai toán lớp
Nhì lên nhà thầy làm cỏ hay quét dọn
xung quanh nhà dưới sự
sai khiến của bà thầy. Có khi thầy
phân công một vài đứa
dẫn con chó cưng của
thầy đi dạo, lau chùi chiếc xe đạp láng coóng cho thầy Cũng có lúc thầy sai đi
mua đồ lặt
vặt
khi bà thầy không có ở nhà. Nghĩa là dưới
sự điều
động của
thầy ngày thứ năm là ngày lao động công
ích. Hôm đó thứ năm, thầy bảo:”
Mấy trò bên Giáo thì quét dọn chỗ
này xong rồi về, mấy trò bên Lương theo thầy”. Thầy
dẫn chúng tôi đi tới cuối
làng và chỉ ngôi nhà tranh mới cất
sơ sài nói đó là cái
Chùa, rồi điều động chúng tôi làm cỏ, gom
cây, lượm rác. Làm một
hồi mệt
thì có một sư cô bưng
nước ra mời, buổi
trưa được ăn cơm
với tàu hủ và canh rau. Được 2 lần
thứ năm đến chùa làm thì thầy ngưng không dẫn đi nữa.
Dường như
sau đó chế độ làm cỏ ve được bãi bỏ.
Chỉ có những học sinh có lỗi mới
lên trường ngày thứ
năm để chấp hành lệnh phạt mà thôi.
Tuy
thầy không dẫn đi nữa, nhưng chị em tôi vẫn
đến
Chùa làm “Công quả”như theo lời thầy
dặn dò. Dần dần cuối tuần,
thứ bảy
chủ nhật
chúng tôi cũng lên Chùa để giúp sư cô, để nghe sư
cô thuyết pháp, để học
kinh và để biết thế nào là quy y. Đương nhiên là má tôi mừng lắm
khi tôi không còn vào nhà thờ học giáo lý mà chạy tuốt xuống cuối
làng để tập ăn chay và niệm Phật. Từ
Chùa về nhà tôi hơi xa, nhưng hôm nào cũng tụng kinh tối
xong thì mẹ con mới đốt
đèn bão lò mò dẫn nhau về.
Mới đầu
Sư Cô cũng tội lắm.
Bị những người có Đạo
quá khích không thích. Buổi sáng sớm hay chiều
tối
thường bị quăng những rác hay đồ dơ
dáy vào chùa. Có hôm họ quăng cả phân vào trong Chánh Điện. Sư
Cô chỉ biết dọn dẹp và niệm
Phật. Phá hoài không thấy động
tĩnh, họ
cũng thôi.
Thật ra tuổi
còn nhỏ tôi cũng không biết gì về
Phật Pháp. Điểm chính là vui, có bạn
mới,có em trai đi chung, có sư cô thiệt là hiền
thương yêu và có một
nếp sống
khác hơn hồi
trước tới giờ. Chúng tôi được Sư
Cô dạy học
chữ, tập
tụng kinh. Mỗi đứa được Sư
Cô cho một
bộ đồ
lam rộng thùng thình, một cái áo tràng vàng mỗi khi làm lễ.
Chúng tôi học kinh như học bài
thuộc lòng ở
trường. Kinh thiệt là khó
vì không hiểu gì hết, đọc
lộn xộn
câu trước câu sau tùm lum. Cuối cùng mỗi
ngày học một đoạn và đứa này truy bài đứa kia. Sau khi kiểm tra
thấy chúng tôi đã thuộc
kinh Đại Bi Chú thì sư cô cho chúng tôi quy y.
Tôi có pháp danh Kim Ngộ. Em tôi- Thông-
pháp danh Kim Ngô, và bạn em tôi –Cu Tí-
con Dì Sáu gần nhà pháp danh Kim Thạnh. Không biết
Sư cô theo tông phái
nào. Chỉ biết khoảng 15 tuổi
trở xuống
pháp danh bắt đầu bằng Kim ( thí dụ Kim Ngô, Kim Thạnh, Kim Đô…), lớn hơn bắt đầu
bằng Mỹ
.(thí dụ Mỹ Hiền, Mỹ
Châu…) Già cở 40 trở lên,Nữ
bắt đầu
bằng Diệu(
Thí dụ Diệu Quý, Diệu Hiền…). Nam bắt đầu bằng Thiện
( Thí dụ Thiện Thọ, Thiện Khải…).
Sư cô đẹp và giỏi
lắm. Biết
đánh máy chữ, biết chích thuốc,
biết thêu, may và đương nhiên rất giỏi
về kinh sách Phật. Sau này má tôi cúng
dường một Đại hồng Chung. Cho nên trên xóm nhà thờ có chuông rung Đính Đoong, Đính Đoong, thì Xóm Chùa cũng
vang lên Tùng Tùng Tùng. Boong, Boong,
Boong… làm vui làng vui xóm. Chuông nhà thờ thường rung lên buổi chiều để công nhân đi lễ nhà thờ sau một ngày làm việc.
Chủ nhật
hay những ngày có lễ thì chuông mới rung buổi sáng. Riêng Chuà thì trái lại. Sáng sớm Sư Cô dậy công quả,hồi chuông đánh thức công nhân dậy nấu cơm, trước tiếng kẻng của dượng Bảy gát dan độ chừng 10 phút. Buổi tối, tiếng chuông Chùa lại vang lên báo hiệu giờ Sư Cô công phu khuya. Đều đặn không chểnh mãng như tánh tình điềm đạm từ ái của người khoác áo nâu sòng.
Lúc đầu tới Chùa mà chưa quy y, tôi cũng phá lắm. Mấy đưá bạn có Đạo xúi gì tôi cũng làm. Ngày rằm hay lễ lớn, tôi là người lén canh Sư Cô để tụi nó lẽn vào bàn cúng ngoài trời rinh hết trái cây đem đi. Mấy nhà bên lương cúng cô hồn vào rằm tháng giêng, tháng 7 hay tháng 10 thì xóm nhà thờ chúng tôi là nhóm giựt đồ cúng giỏi nhất . Sau khi đứng quan sát mọi phía,mấy anh phân công:” Con Chín hể mà người ta la Giựt thì chạy lại bưng liền dĩa trái cây. Con Thành chụp liền mấy khúc mía, thằng Mười nhỏ đứng |
ngoài giữ cái rỗ, còn lại để mấy anh” Đôi khi giựt xong đi về nhà, mấy anh tôi mình mẫy chèm nhẹp vì cháo ,chè cúng cô hồn đổ đầy người. Người mình có quan niệm cúng cô hồn mà có nhiều người giựt và lấy hết thì năm đó làm ăn khấm khá, cô hồn đã ăn rồi sẽ không khuấy phá mình. Tuy nhiên sau khi quy y và bị quỳ hương vài ba bận tánh tôi thuần lại, ra vẽ con gái hơn và biết cản không cho tụi nó làm ‘quỷ phá nhà chay” ở chùa nữa.
Chùa
nghèo, mái tranh, phên tre, nền đất , lại
là khu vực mới khai hoang nên rất
nhiều kiến,
mối và đủ
thứ côn trùng. Buổi tối
cúng Phật, đốt đèn
măng xông thì mối cánh bay vào tìm ánh
sáng. Dù có đóng cửa chúng cũng vào. Mối bay vào đèn
vởn vơ
một hồi
thì té xuống, cánh rụng đầy
chiếu, còn thân mối
trụi lũi bò lổm nhổm. Muà An cư kiết hạ,
Sư cô vào tịnh thất
1 tháng không ra ngoài. Kiến đen kéo từng đàn
và phòng. Sư cô tịnh khẩu,
chỉ liên lạc bên ngoài bằng viết giấy.
Phật tử
muốn rải
thuốc chận đường kiến
đi .Sư cô không cho
bảo “Không
được sát sanh” Khi sư cô ra Hạ
người gầy nhom, thân thể nổi u nổi
nần vì kiến cắn và không tắm rửa,
thấy thật
thương. Tôi và em
Thông thường
khi tan học về nhà, ăn cơm
xong là ôm vở lên chùa. Tôi thích lên
Chánh Điện, chui dưới
bàn thờ Phật để học bài và để
ngủ. Nơi
đó tương đối rộng,
giống như
một cái hầm nhỏ thật yên tịnh
. Lúc đó trong đầu óc non nớt cứ
đinh ninh mình chui dưới chân Phật
để học
thì sẽ thông minh, mau thuộc bài hơn.
Cu
Tí cùng trang lứa với Thông, từ
nhỏ đã không ăn thịt. Lỡ
ăn trúng thịt cá là bị ói. Từ
ngày Sư Cô về lập
Chùa Cu Tí quy y, sau đó xuất gia và
trở thành chú Tiểu với
pháp danh Kim Thạnh. Chú Kim Thạnh
được sư cô cạo
đầu chừa
3 vá rất tức cười. Chú lùn và hơi mập,
bụ bẫm
như trong tranh vẽ. Dù đã xuất
gia, nhưng tính con
nít vẫn còn, chú theo tụi tôi phá cũng khỏi chê. Mặc dù Sư cô rất thương
yêu chú. Coi như
con ruột nhưng chú vẫn
bị quản
lý nghiêm nhặt và bị phạt
quỳ hương thường xuyên. Một
lần Sư
Cô nhập Hạ, chú nói
cười lớn tiếng, chạy lên trên Chánh Điện để chơi ú tìm với tụi
tôi. Sư Cô viết giấy
ra. Bắt tụi tôi quỳ một cây
nhang, chú Kim Thạnh hai cây. Thế là cả
bọn đành
quỳ hương chịu tội.
Vốn tin Phật, nhất là có hai ông Hộ Pháp mặt
mày dễ sợ
đứng
trước Chuà, nên không đứa nào dám ăn gian. Đến cây thứ nhì của chú Kim Thạnh,
hai chị em tôi làm bộ nóng nực
dùng quạt tre quạt cho nhang cháy nhanh, mau hết. Vậy
đó tuổi thơ như
tấm giấy
trắng dễ
thương nguệch ngoạc
chữ viết
học trò. Tôi và em tôi lớn lên với
niềm vui Phật Pháp. Trong làng, mỗi
khi có người chết
hay đau ốm bệnh hoạn là Sư cô dẫn Phật
Tử đi đến
tận nhà tụng kinh, cầu nguyện. Càng
ngày ngôi Chuà càng có nhiều Phật Tử
đến quy y. Những người bên Lương
có nơi gữi gấm
tâm linh nên cũng hoà nhã với nhau hơn. Ngôi Chuà cũng được sửa
sang tươm tất, ấm
cúng và trồng nhiều cây trái xum xuê. Ổi Xá Lị đã cho những trái to mọng,
ngon lành, Mấy cây mãng cầu dai, mãng cầu
xiêm trĩu nặng những quả.
Chùa có thêm hai chú Tiểu xuất gia và
Phật Tử càng ngày càng đông. Chúng tôi và chú Kim Thạnh cũng lớn
lên theo ngày tháng. Tôi như
con chim được chắp cánh bay xa. Bỏ lại khu vườn tâm linh một
bên để vùi đầu vào đèn
sách. Chú Kim Thạnh không còn bị cạo
đầu 3 vá, chú được
Sư Cô nhận làm con và đích thân nuôi dưỡng. Chú
được đi học những
lớp Phật
học trên Thành Phố.
Trong
tình trạng chiến tranh, mọi thứ đều
thay đổi, đều diễn biến ngoài sự tưởng
tượng của tôi. Ngôi chuà bỏ hoang phế,
Sư cô lên Thủ Đức
cất một
ngôi chùa khác trên một mãnh đất Phật
Tử cúng
dường. Khi má tôi bệnh nặng,
lời dặn
dò cuối cùng là khi bà nằm xuống
mọi thứ
đều phải
làm đơn sơ. Hãy mua một áo quan rẻ tiền để
má đi thanh thản không vác nặng quan tài. Hãy thiêu má và không được giết
bất cứ
con vật nào để làm đám ma. Hãy cúng cơm
chay và nhất là phải mời cho được thầy
Kim Thạnh về tụng kinh siêu độ cho má. Má không muốn nghe mấy ông thầy tụng
gõ lốc cốc
tụng kinh kiếm tiền đề nhậu.Khi
má tôi mất, chúng tôi đã làm đúng những gì má tôi trăn trối. Thầy Kim Thạnh lúc đó đã là một Đại đức. Thầy
cùng chư tăng về lo cho má tôi chu đáo. Sau khi tôi xuất ngoại,
thầy đã nhận ba tôi làm Bá phụ. Thầy
rước ba tôi về
chùa, ông đã xuống tóc quy y sống cuối
cuộc đời
với câu kinh tiếng kệ. Khi ông nằm xuống được chôn trong một cái tháp nhỏ nằm trong khuôn viên chùa, gần cái tháp của
Sư Cô bổn sư
của tôi.
Bây
giờ ngồi
đây, những kỷ niệm thời thơ
ấu tràn về đầy ắp. Tôi như
thấy lại
cái xóm Chùa ngày xưa
với tiếng
trống, tiếng Đại hồng Chung vang lên rộn rã. Và tôi con bé cắt
tóc bum bê nắm tay em tung tăng chạy nhảy
trong khuôn viên chuà. Ngôi chùa đầu đời đã gieo cho tôi những hạt giống từ
ái, vị tha và niềm tin Phật
pháp.
NGUYỄN THỊ THÊM
|
Friday, September 7, 2012
Hồi Ký: XÓM NHỎ - Phần 2 - NTT
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment