Saturday, June 21, 2014

Thơ: HÌNH NHƯ EM ĐÃ YÊU - Thêm

Thơ: MỘT CHÚT TÂM TÌNH - Phương Lan

Bút ký: NHỚ NGÀY 19 THÁNG 6 - Nguyễn Thị Thêm



 NHỚ NGÀY 19 THÁNG 6
Khi tôi đt bút viết nhng dòng này thì đã là ngày 19 tháng 6, ngày Quân Lc Vit Nam Cng Hòa. Ngày mà nhng người lính và v lính như chúng ta không th nào quên.
Xin dành một phút tri ân những người lính anh dũng đã bảo vệ quê hương dân tộc. Một phút mặc niệm những chiến sĩ đã vị quốc vong thân.
39 năm các anh rời vị trí chiến đấu là 39 năm đất nước thay ngôi đổi chủ. Biến một quốc gia hùng cường trở thành nạn nhân của mọi tai ương và đang trên bờ vực thẳm mất biển, mất đất, mất chủ quyền.
Cho nên càng nhìn về đất nước hiện nay, người Việt Nam trong và ngoài nước lại càng dành cho các anh những tình cảm trân trọng và kính yêu hơn xưa.
Trong giai đoạn dầu sôi lửa bỏng, khi quân Cộng sản phá vỡ những quy ước Quốc tế tìm cách chiếm trọn Việt Nam. 
Những người thanh niên đang ở tuổi tương lai ngời sáng phải xếp bút nghiên theo lịnh nhập ngũ. Những giáo viên trên bục giảng cũng phải lên đường. Hàng hàng lớp lớp thế hệ học sinh bước ra khỏi ngưỡng cửa Trung học phải khoác áo lính để bảo vệ đất nước. 
Những buổi duyệt binh oai hùng rầm rập bước chân diễn hành trong ngày 19/6 là những hình đẹp trong quân sử VNCH. Chúng tôi, những nữ sinh ngoài những khăn tay thêu gửi ra mặt trận, những lá thư động viên , những lần choàng vòng hoa chiến thắng, còn là những người yêu của lính thật sự.
Những người em gái hậu phương đã biến thành người vợ lính để thắt thẻo ruột gan những lần chồng lên đường hành quân. Người vợ lính ở trại gia binh ôm con đợi chồng về. Nghe tiếng đạn pháo hay hỏa châu rơi mà suốt đêm không ngủ. Có thể buổi sáng sửa lại cổ áo cho chồng, buổi chiều ôm xác anh mà khóc. Người nơi thành phố, hồi hộp mỗi lần có một người lính lạ mặt đi vào khu phố.
Đời người lính và vợ lính như những bọt bèo trong cuộc chiến Nam Bắc tương tàn.



Thế nhưng, trong trái tim họ vẫn đầy ắp tình yêu sông núi và tình nghĩa vợ chồng. Họ tự hào vì màu cờ, sắc áo. Họ hảnh diện vì binh chủng mình phục vụ. Người lính là phải bảo vệ đất nước và người dân. Cho nên trong khi chiến trận khốc liệt ngoài biển đảo hay đất liền, người học sinh vẫn yên lành vô tư cắp sách đến trường học luân lý, đạo đức và kiến thức. Người thành phố vẫn nhởn nhơ uống cà phê nghe nhạc.
Tất cả đều yên bình không hề được dạy hai chữ căm thù và giết chóc. Cái khác của hai miền Nam và Bắc là ở chỗ đó. Cho nên người miền Nam mới ngây thơ về hai chữ hòa bình và thống nhất đất nước của Cộng Sản để uất hẹn vì sự thiếu hiểu biết của mình.
Không ai có thể tin quân lực VNCH lại buông súng đầu hàng  tức tưởi như vậy. Khi người lính Bắc Việt tiến vào Sài Gòn họ còn tưởng trong mơ. Một bàn cờ chính trị ăn thua một cách gian lận và bội bạc. 39 năm nhìn lại vẫn còn đau. 
Xin thắp một nén hương lòng tri ân và tưởng niệm những vị anh hùng đã tuẩn tiết trong ngày  30 tháng 4 . Cũng như nguyện cầu cho những hương linh các chiến sĩ và đồng bào đã chết trong ngày tang tóc đó.
19 tháng 6, ngày Quân Lực VNCH đã không còn được tổ chức rầm rộ tại quê hương như ngày xưa. Nhưng trong trái tim của bao nhiêu người con xa xứ đều nhớ mà kiêu hảnh xen lẫn ngậm ngùi.
Người lính trong mỗi gia đình HO, người lính trong mỗi trái tim của người Việt lưu vong không bao giờ chết.
Rồi sẽ nhiều thế hệ qua đi nhưng người lính vẫn hiện diện trong lịch sử Việt Nam và những bước quân hành nhịp nhàng diễn hành ngày xưa sẽ mãi trường tồn
Xin cám ơn người lính VNCH. Cám ơn các anh đã ghì súng bảo vệ tiền đồn cho chúng tôi yên lành học tập.
Xin cám ơn những người lính tù Cộng Sản đã kiên cường trong hàng rào kẻm gai và để lại cho đời biết bao gương bất khuất.
Ngày 19 tháng 6 năm nay lại về trong sự sôi động của mùa World Cup cũng như sự rộn ràng chuẩn bị họp mặt thường niên của các trường Trung Học . Trong đó có trường Trung học Long Thành và Ngô Quyền mà tôi một thời cắp sách.
Xin gửi đến các bạn là những người lính VNCH. Các bạn cũng là những người tù Cộng Sản đã trở về sau bao nhiêu năm gian khổ nhục nhằn.
Cám ơn các bạn. Cám ơn người lính già của tôi.
Chúc tất cả được bình an và mạnh khỏe.

NGUYỄN THỊ THÊM
19/06/2014

Thơ: TỔ QUỐC GHI ƠN - Huỳnh Phạm Nguyễn




Ta đến An Lc
Thị trấn hoang tàn sau mấy mươi ngàn trái pháo
An Lộc còn lại gì ngoài chiến tích, ngoài đổ vở thương đau?
Ơi ! An Lộc ,
Ơi ! Những anh hùng tử thủ
Các anh được những gì?
Còn lại gì?
Và nghĩ gì trong cuộc chiến hôm nay?

Hỡi những thanh niên suốt ngày đêm chăm chú sách đèn,
miệt mài thi cử, lựa chọn phân khoa
Tìm công danh bằng bút nghiên sách vở
Hy vọng một mai thành tài với bằng kỷ sư, bác sĩ -
sống đời vương giả, vợ đẹp con xinh.. 
Hỡi những thiếu niên, thiếu nữ lăn lóc bụi đời,
tóc dài quá khổ, sống cuồng điên trên những xác người 
Hỡi các người ,
Hãy đến đây - ngắm nhìn An Lộc
Nhìn thực tại chiến tranh
Nhìn hàng ngàn người phơi thây trên vùng đất đỏ ,
hàng ngàn gia đình áo trắng khăn tang
Hãy mở to mắt nhìn những người mang áo trận
tóc tai rối bời
mặt hốc hác 
mắt quầng thâm
Đôi giày đinh há mỏm nghếch trông đời.
Họ là hiện thân khốn khó, sống lất lây dưới mấy tầng địa đạo ,
ăn cơm sấy khô, uống mồ hôi nước mắt thân tình.
Họ giữ vững An Lộc
Giữ vững niềm tin
Để được mang danh anh hùng tử thủ?
Hay chỉ để âm thầm đau xót, mắt cay sè nhìn hàng chữ máu,
viết vội vàng trên tường xám , trước hàng hàng nấm mộ đấp qua loa 
             "TỔ  QUỐC  GHI  ƠN"
Ơi ! Các bạn bè của ngày hôm qua còn sớt chia
từng ngụm nước,
từng niềm tin sẽ trở lại gia đình.



Ngày hôm kia,
Ngày hôm qua
Và cả sáng hôm nay
Các anh còn nhìn nhau cười nửa miệng, 
nghe radio lãi nhãi về chuyến viễn du
chuyện tái lập bàn hội nghị
tìm hòa bình, ngưng chiến trên toàn cỏi Đông Dương
Để bây giờ...
Ôi, tan hoang trong giấc ngủ muôn đời. 

Ơi ! Các anh chiến sĩ
Ơi ! Những thanh niên Việt Nam còn miệt mài trên đường chinh chiến
Nước mắt các anh còn nồng
Mồ hôi các anh còn mặn
Máu các anh còn hồng
Mồ hôi, máu xương và nước mắt các anh còn đổ xuống  quê hương 
làm phân bón
Còn đạn bom cày xới tận tình
Thì hãy giữ vững niềm tin
Rằng , 
Một mai quê hương ta sẽ vươn mình như cây, như cỏ
và hương bưởi , hương bồng man mác chiều quê
Một mai con cháu ta khôn lớn
Nó sẽ hảnh diện đọc vang bài học Sử
Mắt mở to cao ngạo nhìn đời
Vì Việt Nam đã có các anh
Những chiến sĩ không tuổi, không tên đã giữ vững thành trì
Giữ vững Việt Nam qua bao mùa lửa đạn
Nó sẽ ngẩn đầu rưng rưng nước mắt
Sẽ say sưa tô đậm lại hàng :
                   "TỔ
                    QUỐC
                    GHI
                    ƠN"
Ơi! Những anh hùng không tên tuổi
Ơi! Những anh hùng con Mẹ VIỆT NAM !

HUỲNH PHẠM NGUYỄN
Mùa Hè đỏ lửa 1972 



Saturday, June 14, 2014

Thơ: XUỐNG ĐỒI - Huỳnh Phạm Nguyễn

Thơ: LẠI SÁNG - TKP

Thơ: WORLD CUP NHỚ BA - Thêm

Thơ: NHỚ CHA - T.H.T.H

Bút ký: THÁNG SÁU VÀ CHA - NTT



Rất nhiều lần tôi muốn viết về ba của tôi, Tui nhớ và thương ông nhiều lắm. Ngược lại tôi cũng là đứa con gái ông cưng nhứt nhà.

Mỗi khi nghĩ đến cha thì hình ảnh hiện ra trong đầu tôi là một người cha đạo mạo và nghiêm khắc. Tôi không muốn như vậy. Tôi muốn ông cười, nụ cười thật từ ái và hiền lành. Tôi muốn ông đọc những dòng tôi viết về ông rồi cười thật tươi, thật sảng khoái như mọi lo âu, phiền muộn về đời sống theo gió bay đi.
Không gian chỉ có hai cha con, thời gian như quay lui lại. Tôi chỉ là đứa con gái nhỏ xíu ông  hí hoáy cắt tóc  húi cua như mấy người anh.

 Ngày Tết, tôi ngồi trên bình xăng chiếc xe mô tô đen ông lái. Cái áo đầm ông mua cho tôi còn mới tinh. Sợi dây chuyền vàng mặt hai con chim tranh nhau trái đào , cây kiềng vàng cứng ngắt làm cổ tôi vướng víu. Mấy cái này đích thân ba tôi đeo vào cho tôi. Kể cả đôi khoen vàng đeo tai ông cũng tự tay mang vào cho con gái. Tôi ra dáng một cô con gái nhà giàu mỗi khi Tết theo ba về ngoại đốt nhang ông bà. Tôi nhớ mấy đứa con dì Bảy tôi, đứng lấp ló sau tấm vách tre len lén nhìn, ra vẽ rất thèm thuồng.
 Ba tôi cưng tôi như vậy đó vì ông chỉ có tôi là con gái một. Mỗi ngày, sau khi ăn cơm xong, ông cần ngủ một giấc buổi trưa để chiều còn đi rước dân cạo mũ. Ông hay bắt tôi nhổ tóc trắng. Cứ đếm sợi để nhận thưởng.  Tôi ngồi nhổ tóc sâu cho ba mà gục xuống ngủ lúc nào cũng không hay. Khi thức dậy ba tôi đã đi làm và đầu tôi nằm trên chiếc gối của ông. Thì ra đó là cách ông dỗ tôi ngủ trưa.
 Ba tôi không uống rượu và  không đánh bài, ngoại trừ ngày Tết. Và ông chỉ chơi đúng 3 ngày Tết rồi thôi, không ham mê cờ bạc như những người khác. Tuy nhiên chỉ chơi ba ngày thôi mà má tôi cũng đã đứng tim vì ông.
Ngày Tết dân phu thường được nghỉ nhiều ngày để chờ cao su thay lá mới. Do đó nhiều việc ăn chơi giải trí được mở ra. Trong đó có sòng tổ tôm và đánh chắn. Vì đa số dân phu, cai, đội ở đây đều là người Bắc, được Tây tuyển phu vô Nam khai phá cao su để lập đồn điền. Ba tôi chơi khá lớn. Ông đặt một lần, nếu thua thì bỏ tiền ra đặt lại. Nếu thắng, ông không lấy tiền vào. Ông để vậy đặt tiếp. Thắng đặt tiếp nữa. Nếu hên tới lần thứ tư chủ cái phải kêu ông lấy vào, đặt nhỏ lại. Cho nên khi ông thắng bài thì tiền nhiều lắm. Còn thua chỉ vài ván là ông  sạch túi bỏ đi về. Má tôi rất tội nghiệp, bà bán thức ăn, khô mực nướng và các đồ nhậu. Bà không dám nhìn ba tôi đánh bài, cũng không dám lại gần vì sợ ba tôi la. Thỉnh thoảng bà kêu tôi :
-Chín! Qua coi ba con ăn hay thua. Có còn tiền không?
Mấy anh tôi thì theo dụ dỗ.:
- Chín ! Đi qua xin tiền ba ,anh dẫn đi mua kẹo kéo ăn.
Và tôi ,chỉ có tôi là dám đứng sau lưng ba để khều khều xin tiền hay đem nước cho ba uống.

Má kể khi sanh tôi ra ba tôi không có ở nhà. Nơi má nằm sinh là vùng Việt Minh hay đi về. Tôi sinh ra cứ khóc, khóc hoài không nín. Má nhắn ba tôi về thăm. Nhắn mấy tin mãi mấy ngày sau ba mới về. Ông  vén cái màn che giường cữ của má tôi, thò đầu vào và nói:
-Ba về rồi nè. Ngủ đi con gái. Má bồng tôi ra. Ông vuốt hai má tôi rồi nói:
-Ngủ ngon đi con. Ba đi nghen.
Thế là ông đi. Còn tôi từ đó ngủ một giấc say sưa và nín khóc. Má tôi lấy cái áo cũ của ba đắp lên người tôi để lấy hơi.

Tôi lớn lên trong bàn tay chăm sóc của mẹ và sự dạy dỗ dặn dò của ba. Ba tôi rất ít nói. Nhưng khi ông nói thì đâu ra đó. Từ từ chậm chạp như để chúng tôi nuốt từng câu, hiểu từng ý trong lời nói của ông.
Tôi nhớ khi học lớp ba trường làng. Ông thầy giáo Lượm ra đề tài vẽ một trái bí đỏ. Tôi nắn nót vẽ rồi tô màu đàng hoàng. Khi chấm điểm và trả lại bài cho học trò. Thầy kêu tên tôi:
-Trò Chín vẽ trái bí rất đẹp và to. Trái bí này trồng lâu, lâu, lâu… lắm mới lớn như vầy.
Cả lớp cười rần rần. Tôi mắc cở muốn khóc  vì tôi biết thầy đem ba tôi ra để chọc chơi. Ba tôi ở Bình Sơn được bà con xóm giếng gọi là Bác Sáu Lâu. Sáu là thứ của má tôi. Còn Lâu hình như tên thường gọi trong nhà ngoài quê. Mà tánh tình ba tôi cũng giống cái tên lắm. Ông làm gì cũng kỹ lưỡng, chậm chạp, từ từ không có gì là vội vàng. Kể cả đi ..cầu.( Ở Bình Sơn. Đường mương thoát nước từ nhà máy chảy ra suối được xây những nhà cầu công cộng. Nước cứ chảy liên tục như vậy để tống khứ phân và rác ra hạ nguồn con suối.) Mỗi sáng ba tôi đi cầu. Nếu người nào muốn đi mà biết là ba tôi ngồi ở trong là họ phải đi tìm nhà cầu khác:
- Ai ở trỏng vậy?
-Bác Sáu Lâu
-Thôi! Tui đi tìm chỗ khác. Chờ ổng có nước ị ra quần.
Thế đó ba tôi nổi tiếng như vậy đó có mắc cười không.

Ba tôi khá đẹp trai dù ông không cao mấy. Nhìn ông người ta có thể tin tưởng: Đây là một người đàn ông chính trực, ngay thẳng và đáng tin cậy. Ông không đùa dai, không trớt nhả nhưng dường như ông có duyên ngầm nên rất nhiều phụ nữ đã ngã vào vòng tay ông. Bà dì ghẻ của tôi một lần chân tình thố lộ:
-Ba mày không dụ dỗ dì đâu. Dì bỏ nhà đi theo ổng đó. Ba của dì đánh biết bao nhiêu nhưng dì không thể không nhớ ổng. Dì lén gói quần áo, trốn ông ngoại và theo ổng tới bây giờ. 
Hồi còn nhỏ tôi rất ghét dì. Nhưng khi lớn lên thấy dì thương ba tôi bằng cả tấm chân tình nên tôi không còn giận hờn. Tôi  coi dì như một người mẹ và yêu thương các em con dì  như ruột thịt.
Ba tôi một thời lăn lộn để mưu sinh nên ông biết nhiều thứ, nhiều nghề. Ông rất mê thể thao và à đoàn trưởng của đoàn Thanh Niên Cộng Hòa thời đó. Nhìn thân hình ông, những bắp thịt săn chắc cuồn cuộn trông rất khỏe mạnh. Ông là huấn luyện viên túc cầu cho sở Bình Sơn.



Những cầu thủ Bình Sơn lúc đó đa số là người Chà. Họ đá rất khá và thường đi ra ngoài các quận và sở cao su khác đá tranh giải. Tôi luôn được ba tôi cho đi theo để lo vụ nước chanh và quần áo, khăn  cho cầu thủ. Thật ra má tôi cũng vất vã vì  phải bỏ tiền và công sức ra cho ba tôi làm tròn nhiệm vụ. Anh em tụi tôi  sau mỗi lần đội banh giao đấu phải hì hục gở cỏ may ghim vào vớ, áo quần cầu thủ. Còn má tôi giặt đồ bở hơi tai chả được ba tôi trả công gì hết.
Tôi nhớ có một lần, vào dịp gì đó có buổi họp khá quan trọng. Ban Tổ Chức mời ba tôi lên phát biểu ý kiến. Ba tôi bước lên khán đài. Tôi  khều khều  con Tuyết mặt mày hí hửng. Mấy anh tôi vỗ tay rào rào. Hội trường dứt tràng pháo tay, ba tôi lên tiếng:
-Kính thưa qu‎‎ý‎ vị quan khách. Kính thưa….Hôm nay tui….Thế rồi ba tui đứng như trời trồng, tay mân mê cái cằm đã cạo râu sạch coóng. Cả hội trường im như nín thở chờ đợi. Thế rồi ba tui lí nhí.
-Xin cám ơn quý vị. Rồi ba tôi bước xuống. Cả hội trường òa ra cười, vỗ tay vang trời. Tôi ngớ ra tẻn tò ra mặt.

Ba tôi là vậy, làm chứ không nói. Trước đám đông ông rất khớp. Nhưng trước mặt ông, các em, con, cháu cũng rất khớp vì cái uy nghiêm của ông. Ông chưa hề đánh con một roi nào. Ông kêu vào, chỉ cái ghế bảo ngồi xuống đó rồi ông nói. Từng lời nghiêm huấn khiến chúng tôi nín thở để nghe. Ông là cội tùng rất to che chắn cả 3 dòng con và 3 mái gia đình.

Ba tôi là người con rất có hiếu với bà nội tôi. Một mình xa quê vào Nam lập nghiệp. Tiện tặn lo cho mẹ cho em. Gửi tiền và vật liệu về quê để Nội tôi cất nhà đàng hoàng. Ông cho má tôi về quê rước nội tôi vào Nam phụng dưỡng, mỗi ngày ông đều đến hỏi thăm, trò chuyện và dặn dò má tôi chăm sóc tận tình. Ông và chú Năm tôi mua gỗ tốt rồi mướn thợ làm áo quan cho nội tôi. Ngày đem về, trông thấy cái hòm nội tôi phát khiếp bà la om sòm:
-Úy chu choa quơi! Đem đi, đem đi quăng cho xa, mẹ sợ lắm.
Thế là ba tôi phải làm một gian nhà nhỏ để cái quan vào và phủ kín mít không cho nội biết. Bà nội tôi sống tới 95 tuổi mới ra đi. Ngày nội tôi hấp hối, cơ thể yếu dần, chân tay không còn cử động.Trong khi ba tôi đi rước chư tăng về, tôi pha nước nóng với rượu lau cho nội  và thay bộ đồ trắng cho bà. Vì chỉ có các sư thuộc phái Nam tông nên họ tụng cho nội tôi kinh bằng tiếng Phạn. Tụng xong,Ba tôi nói :
-Mẹ tui là người Việt Nam, mấy thầy tụng tiếng Phạn mẹ tui không có hiểu. Mấy thầy làm phước  tụng cho mẹ tui một hồi kinh tiếng Việt Nam.
 Tôi đứng ở đầu giường lau mồ hôi nội tươm ra ở trán, thấy các thầy vừa dứt hồi kinh, nội tôi thở hắt ra một cái rồi ra đi.Ông thầy cả nghe tôi nói cũng còn nghi ngờ nên lấy bông gòn để ở mũi nội tôi và cuối cùng tuyên bố nội tôi đã ra đi sau khi nghe xong lời kinh siêu độ.

Từ đó ba tôi bắt đầu hướng Phật. Ông ăn chay và tích cực phát tâm cúng dường cũng như bố thí. Ông phát động các bác trong xóm tái thiết lại ngôi chùa bị bỏ hoang từ lâu. Ông thành lập Hội tương tế và cùng các bác trong hội thỉnh Phật và thỉnh tăng về trụ trì. Ngôi chùa thành hình và phát triển cho tới ngày nay.

Thật lòng mà nói, đối với tôi ông ngoài là nghiêm phụ còn là một người bạn. Có điều gì khó khăn tôi thường tâm sự với ông. Ông lắng nghe và cho tôi những câu khuyên bảo chí tình. Còn ông, tuổi càng cao ông càng gần gũi tôi hơn. Những chuyện không thể nói với ai ông đều cùng tôi san sẻ. Hai cha con có nhiều khi ngồi tâm sự thâu đêm. Cái lằn ranh cha con nghiêm khắc những lúc đó không còn, mà còn lại như hai người bạn vong niên.
Tôi thương ba tôi lắm. Có những giọt nước mắt lặng lẽ rơi xuống mỗi khi nhắc tới ba tôi. Nhất là mỗi dịp Tết chuẩn bị bàn thờ để rước ông bà. Nhớ tới ông tôi lại khóc.
Nhà tôi đa số là con trai chỉ có mình tôi là gái. Thế nhưng vào những ngày giáp Tết, các anh tôi có bổn phận lau chùi lư hương, chưn đèn. Nhưng quét dọn bàn thờ và trang trí chưng trái cây, bông hoa ông không cho ai làm. Chỉ chờ tôi về mà thôi. Có năm vì việc làm, việc nhà, chiều 30 Tết tôi mới về nhà cha mẹ. Mấy anh tôi chỉ bàn thờ chưa trang trí mà quát tôi một trận. Mấy ảnh giận luôn cả ba tôi. Ông ngồi đó chậm rãi:
-Bây lo chuẩn bị dọn cúng đi. Con Chín quét dọn chưng trái cây xong thì bưng lên. Làm gì mà ồn vậy.

Tôi xuất ngoại được hai năm thì ba tôi vào chùa xuất gia. Ông vui trong kinh kệ và hướng tâm vào Phật pháp. Tôi về chùa nhìn ông trong lớp áo tăng già mà thương ông nhiều lắm. Tôi cũng rất mừng là ông đã chọn con đường chánh pháp để sống cuối đời. Con anh Sáu tôi theo nội vào chùa để săn sóc và làm thị giả. Sau ngày ba tôi mất, cháu xin thầy trụ trì xuống tóc xuất gia làm chú tiểu. Bây giờ chú cũng đã là một đại đức.

Ba ơi! Tháng Sáu bên này là lễ của cha. Con ngồi viết những dòng này mà nước mắt rơi ướt cả bàn tính. Ba hiển hiện trước mắt con với nụ cười bao dung và hiền hòa. Ba đã vào cửa Phật từ khi con rời quê hương xa xứ. Con đã bất hiếu bỏ ba ở lại  để làm tròn trách nhiệm một người dâu, người vợ, người mẹ. Bây giờ đôi khi chăm sóc chồng quá vất vả hay bị nhiều phiền muộn, căng thẳng. Không hiểu tại sao con cứ nhủ mình “ Hãy coi anh ấy như là ba để toàn tâm toàn ý yêu thương và săn sóc”
Ba ơi! Trên cao hay ở một nơi nào đó trên trái đất này. Con nguyện ba luôn được an lành, hạnh phúc và được mọi phước lành.

Nguyện 10 phương Chư Phật hộ trì cho Ba.

Con gái của ba.

Nguyễn thị Thêm.
12/06/14.