Việt Nam 1979
Vào
lúc thập niên 70 sắp trôi qua và không bao giờ trở lại thì hai anh em
tôi bắt đầu cuộc hành trình xuyên qua nhiều ngõ chết để tìm sự sống.
Chiến
trận ác liệt giữa Việt Nam và Cambuchia khởi sự cùng lúc với lịnh tổng
động viên trên toàn quốc. Tất cả những thanh thiếu niên VN từ 18 tuổi
trở lên đều phải nhập ngũ để yểm trợ cho mắt trận miền Tây. Một phần lớn
bạn bè của chúng tôi phải lên đường tham gia cuộc chiến để rồi chẳng có
mấy ai trở về. Họ đã nằm lại ở một khu rừng hoang vắng âm u hay thịt
xương rủ mục cùng đất đồng khô một nơi nào đó trên xứ Chùa Tháp. Thêm
một lần nửa cái chủ nghĩa Cộng Sản hoang tưởng vô thần thê lương lại
mang lưỡi hái tử thần gạt ngang đầu bao người trai đất Việt. Mẹ tôi ủ rủ
lo sầu suốt tháng ngày. Bà lo cho anh Tuân tôi. Anh sắp được 18 tuổi và
sẽ phải bị bắt đi vào cỏi chết. Là phụ nữ Việt Nam qua bao trận chiến
tranh thảm khốc trên khắp miền đất nước nổi sợ hải mất một đứa con trai
yêu dấu ray rứt trong lòng.
Gia
đình tôi quyết tâm tìm một lối thoát mang đến sự sống còn cho anh tôi
bằng cách trốn khỏi Việt Nam qua việc quen biết với một cựu sĩ quan VNCH
vừa vượt thoát ngục tù Cộng Sản. Anh Tuân sẽ lên thuyền con ra biển lớn
vượt Thái Bình Dương đi tìm miền đất hứa. Cho anh, cho tôi, cho mấy đứa
em thơ cùng cho cả một gia đình đang từ từ buông tay nhìn cảnh chết đói
cận kề từng ngày một. Sau 1975 không có việc làm bao tiền của dành dụm
đã bay biến đi tự bao giờ cả nhà tôi đang trôi vào ngõ cụt.
Theo
kế hoạch anh Tuân đã rời nhà cùng với mấy người tồ chức cho chuyến vượt
biên này đi xuống Cần Thơ một thành phố êm đềm bên bờ sông Hậu với
nhiều nhánh sông con chảy ra biển lớn. Họ sẽ rời xứ từ nơi đó.
Để
khỏi bị công an của chính quyền nghi ngờ họ đã mua được một chiếc
thuyền con bé tẻo teo ngày ngày ngược xuôi qua lại trên sông chỗ này chỗ
kia giả vờ như những người thương lái bán buôn nho nhỏ. Anh tôi và
những người trong tổ chức đã hòa lẩn với dân chúng bản địa ngày qua ngày
lái thuyền ngang qua những đồn công an biên phòng cố tạo một vẻ bình
thường của dân miền sông nước nhưng thật ra là đang tìm cách quan sát
hệ thống kiểm tra của lực lượng biên phòng cùng mua sắm tồn trữ nhiên
liệu thức ăn chờ ngày ra khơi.
Thuở
đó tôi vừa 15 tuổi vụng dại đếm đời qua những cơn đói khổ buồn lo. Khi
biết được lý do vắng mặt của anh Tuấn tôi cũng muốn đi theo anh nhưng
Mẹ tôi nhứt quyết cản ngăn. Bà biết nổi hiểm nguy lành ít dữ nhiều trong
cuộc hành trình trốn chạy này còn tôi thì không. Ngày đó tôi chỉ biết
là những người đi trước đã đến được bến bờ tự do đều có cuộc sống an
bình no ấm. Họ gởi về cho gia đình còn ở lại những thùng hàng hóa chứa
đầy thuốc men, vải lụa hay tiền bạc để bán dần đi mà sống qua ngày. Tuy
là không được bao nhiêu nhưng có vẫn còn hơn không. Tôi muốn đi theo
anh Tuấn để mong có cơ hội giúp đỡ gia đình như những người đó. Năn nỉ ỉ
ôi mải Mẹ tôi cũng xuôi lòng, bà đồng ý cho tôi ra đi với nổi buồn nhân
đôi. Mà biết làm chi hơn khi bà không còn gì để lo cho tôi cộng thêm
vài năm nữa thì cũng sẽ đến phiên tôi phải đem mạng sống chiến đấu cho
cái chủ nghĩa mơ hồ xa lạ.
Một
năm trời nhọc nhằn chuẩn bị cho chuyến hải hành rồi cũng tới ngày ra đi
vào phương trời vô định. Tôi rời nhà đi Cần Thơ tìm anh Tuân lúc này
đang ngược xuôi trên dòng sông Hậu với 10 đô la cuối cùng của Mẹ làm
hành trang. Chuyến xe đò rời bến chất đầy những tâm tư hổn độn của tôi
trong đầu. Nỗi buồn lo không biết đến khi nào mới có dịp gặp lại Me cùng
gia đình tăng dần theo từng cây số bánh xe lăn. Tôi mới 16 tuổi ngáo
ngơ.
Tổ
chức vượt biên dấu tôi trong một căn nhà nhỏ đã có nhiều người sẽ ra đi
cùng chuyến vào đêm nay. Tất cả chúng tôi đều ngồi bó gối im lặng nhìn
nhau âm thầm đếm từng giờ qua trong niềm lo sợ tràn dâng.
Màn
đêm buông xuống trong cái tĩnh mịch của ruộng đồng đoàn người chúng tôi
len lỏi qua từng con hẻm nhỏ, bờ ruộng nhấp nhô trơn trợt theo bước
chân người dẩn đường đi ra bến đỗ nơi có con thuyền và anh Tuân tôi đang
chờ. Tất cả 26 người chúng tôi được đưa vào giửa khoang thuyền nơi có
cái vòm che nhỏ ngồi sát vào nhau thành hai hàng đối diện. Hầu hết đều
là nam nữ tuổi chừng 18 đến 25. Tôi thuộc thành phần nhỏ tuổi nhứt. Trẻ
hơn tôi là một cậu em độ chừng 13 tuổi. Chúng tôi lặng câm chờ giờ khởi
hành cho chuyến đi không hẹn ngày trở lại giửa màn đêm. Từng cơn sóng vỗ
nhẹ vào màn thuyền từ từ nâng cao nỗi sợ hãi bị khám phá, tù đày lên
tận cùng cao điểm. Tôi ôm đầu nhớ đến Mẹ tôi. Không biết bà có hối hận
khi đã phải đánh một ván bài bằng mạng sống của 2 đứa con trai tuổi đời
chưa đến hai mươi.
Thời gian chờ đợi kéo dài dường như vô tận chúng tôi đã bắt đầu say sóng dù con thuyền bé nhỏ dùng
để chèo trên sông với chiều dài chỉ hơn 2 cái xe hơi và chiều ngang
chưa tới 3 thươc tây vẫn chưa rời bến. Anh Tuân tôi thì không hề chi vì
đã quá quen với hơn 1 năm sinh sống trên thuyền.
Nhìn
ra phía bên ngoài tôi không thấy gì khác hơn là một màu tối đen ghê
rợn. Ông thuyền trưởng đã khổ công chọn đúng ngày trừ tịch không trăng
sao này để khởi hành. Có tiếng máy nổ con thuyền từ từ rời bến xuôi
theo dòng nước sóng vỗ dập dồn như tiếng đập trong tim.
Chúng
tôi đã đến gần trạm kiểm soát biên phòng, mọi người đều cố giữ im lặng,
ngoài tiếng máy nổ nhè nhẹ con thuyền không nột tiếng động chậm chạp
trôi. Tất cả chúng tôi cùng khấn nguyện trong lòng cho được bình yên đi
qua khỏi cái đồn này. Vướt khỏi nơi đây chúng tôi sẽ ra được cửa biển
Thái Bình Dương. Thời gian kéo dài như hàng thế kỷ cho một khúc sông vài
mươi thước.
Bùm ! Bùm ! .. Có tiếng súng nổ.
Chúng tôi thất thần quay đầu nhìn về phía sau. Một chiếc tàu tuần của
công an biên phòng vừa bắn vừa đuổi theo con thuyền bé nhỏ của chúng
tôi. Thôi thế là hết ! Tôi rũ người trong niềm thất vọng não nề. Cảnh tù
đầy xen lẫn với hình bóng của mẹ tôi lởn vởn trong đầu.
Quyết
không để bị bắt ông thuyền trưởng rồ ga tăng hết tốc lựccon thuyền như
đang lướt bay trên đầu ngọn sóng. Phía sau chiếc tàu tuần quái ác vẫn
tiếp tục đuổi theo. Tiếng súng càng lúc càng nghe rõ hơn xen lẫn với
tiếng la hét qua loa phóng thanh.
Bỗng dưng
không biết từ đâu một cơn mưa bão ầm ì kéo đến, nước mưa nặng hạt che
khuất tầm nhìn, sóng dữ nhấp nhô dường như ném phăng con thuyền cùng
chúng tôi bay về phía trước. Chúng tôi lăn lóc trên thuyền ói mửa liên
hồi. Không còn một chút gì sinh lực cùng hy vọng tôi ngất đi lúc nào
không hay.
Tiếng người cười nói vang rân đánh
thức tôi dậy. Có người hớn hở cho tôi biết cơn giông đêm qua đã giúp
chúng tôi thoát khỏi sự truy nã của con tàu tuần duyên và hiện tại con
thuyền đang trên hải phận quốc tế. Chúng tôi đã ra khỏi nước Việt Nam an
toàn. Anh Tuấn nhìn tôi mỉm cười rạng rỡ. Dường như tôi thấy Mẹ tôi
đang chắp tay nguyện cầu.
Vì
không có được những dụng cụ cần thiết trong việc hải hành như la bàn,
bản đồ ... chúng tôi chỉ biết dựa theo mặt trời vào ban ngày và trăng
sao vào đêm tối cố hướng con thuyền đi lần về hướng Tây nơi mà chúng tôi
biết rõ là sẽ đến các nước như Malaysia, Thailand hay Singapore nếu có
trệt chút đỉnh về hướng Nam.
Hai ngày đã qua con
thuyền của chúng tôi đang bập bềnh giữa biển khơi nhìn đâu cũng chỉ
thấy toàn nước với trời. Trong cái tĩnh mịch của một đêm không trăng
chúng tôi nhìn thấy có nhiều ánh đèn le lói từ phía xa xa trông như là
một con tàu lớn dựa theo khoảng cách của những ánh đèn. Chỉ chừng vài
phút sau khi ai đó trên thuyền bắn lên một phát hỏa châu để ra hiệu thì
cái vùng ánh sáng đó đến gần hơn. Chúng tôi mừng rỡ vô cùng vì nghĩ rằng
sẽ được cưú vớt bởi một con tàu buôn lớn hay là một chiến hạm của một
quốc gia nào đó. Tôi cố lần đi về phía trước để nhìn rõ hơn.
Không phải là một chiếc tàu lớn mà là bảy chiếc tàu nhỏ. Tàu của hải tặc Thailand.
Đã
quá trễ để trốn chay khi những chiếc tàu to lớn của hải tặc đã vây
quanh con thuyền bé bỏng của của chúng tôi. Rồi thì với súng ông, dao
búa bọn hải tặc hùng hổ nhảy qua tấn công những người trên thuyền đang
bất lực đứng nhìn. Một tên hải tặc đấm tôi một cú vô mặt và vung dao cắt
một đường ngay chân mày. Những tên khác tỏa quanh đánh đập đâm chém bắt
đầu cho cảnh cướp bóc hãi hùng. Bọn chúng cướp hết tất cả tiền bạc,
vòng vàng nữ trang, đồng hồ ... Một vài tên còn nạy banh các miếng ván
đóng khoang hay đáy thuyền để lục lọi tìm tòi xem có thứ gì quý giá cất giấu trong đó hay không. Thuyền nhỏ ít người lại toàn là dân nghèo chẳng
có bao nhiêu để mà cướp nên bọn hải tặc quay qua hãm hiếp tất cả phụ nữ
trên thuyền. Bầu trời đêm của biển vang đầy tiếng rên rỉ khóc than hãi
hùng.
Sau
khi thỏa mãn thú tính bọn chúng ném quăng tất cả những gì còn lại trên
thuyền của chúng tôi xuống biển. Từ thực phẩm, nước uống cho đến xăng
dầu, chai lọ ... Tất cả, tất cả mọi thứ dần chìm ... Kể cả chút hơi tàn
còn sót lại của chúng tôi. Muốn giết người diệt khẩu bọn chúng bắt đầu
dùng mủi tàu thép đâm vào chiếc thuyền con chỉ còn khung gỗ chơ vơ.
Không hiểu sao mà sau nửa giờ con thuyền rách nát của chúng tôi vẫn chưa
chìm nên bọn chúng đổi ý bỏ đi kéo lê theo một số phụ nữ trẻ đẹp.
Giờ
thì chúng tôi đã bi bọn hải tặc bỏ lại giửa biển khơi trên một chiếc
thuyền bể nát không còn một thứ gì, Thực phẩm, nước uống, dầu xăng ...kể
cả vợ con, chị em hay người yêu ...
Bằng
những cái lon nhỏ và tất cả tàn hơi chúng tôi cố tát nước giữ cho chiếc
thuyền không phải chìm sâu hơn. Ai đó đã căng lên một cánh buồm tự
chế. Con thuyền trôi lững lờ không định hướng chừng độ vài ngày thì với
đói khát đã đưa chúng tôi đến mức tận cùng. Một phép mầu nào đó chúng
tôi tìm được một lon nước nhỏ còn sót lại bèn chia nhau mỗi người một
giọt trong ngày cầm hơi. Thằng bé 13 tuổi ngồi kế bên tôi nhặt được một
ít gạo sống lấm le dầu mỡ trên thuyền bỏ vội vào miệng để rồi nôn tháo
ra hết. Mọi người đều mệt mỏi rã rời gục ngã trong tận cùng thất vọng.
Không một ai thốt lên một tiếng nào. Trong cái bềnh bồng của con thuyền
nhấp nhô theo sóng giữa màn đêm tôi chìm dần vào giấc ngủ với hình ảnh
khổ sầu của mẹ tôi. Có thể bà sẽ ray rứt tự trách mình cả một đời cho
cái quyết định làm mất đi hai đứa con trai.
Lại thêm một trận mưa bảo từ đâu kéo đến. Tôi bò ra mạn thuyền ngửa mặt
nuốt từng hạt mưa rơi vào trong cái thân thể tàn tạ của mình cùng lúc
anh Tuấn kéo vội tôi vào phía bên trong vì lo cho tôi sẽ rơi xuống biển.
Vào
một buổi trưa chúng tôi nhận ra được một chấm nhỏ ở cuối bầu trời. Cái
chấm lớn dần lên theo thời gian và hình như chúng tôi nghe tiếng chuyện
trò bằng tiếng Việt. Tàu của Công An biên phòng ? Một người nào đó sợ
hãi lên tiếng. Làm gì có chuyện đó ! Chúng ta đã quá xa hải phận Việt
Nam. Ông thuyền trưởng gạt ngang.
Khi
thuyền trôi đến gần tôi thở phào nhận ra cái chấm nhỏ đó là một chiếc
thuyền vượt biên như chúng tôi. Có rất đông người trên thuyền nằm ngồi
xếp lớp như những con cá mòi trong cái hộp Sardines. Họ đang ra sức giữ
cho hai thuyền không chạm vào nhau vì sợ bị chìm nếu chúng tôi tràn qua
cướp bóc họ. Những người trên chiếc thuyền đó cho chúng tôi biết là sắp
đến Malaysia và bỏ đi về phía trước sau khi thảy qua cho chúng tôi một
thùng dầu nhỏ.
Một thanh niên trong bọn chúng
tôi còn chút sinh lực đã nhảy ào xuống biển tìm cách vớt thùng dầu lên.
Trong sự hãi hùng tột độ chúng tôi đã kéo được anh ta lên lại thuyền chỉ
trước độ một vài giây trước khi hai chân nằm trong cái miệng há toang
của con cá mập .
Với
một ít dầu xăng đó chúng tôi đã cho máy chạy lại được và tiếp tục cuộc
hành trình gian lao vô bến bờ. Khoảng chừng một giờ sau chúng tôi thấy
lờ mờ một khối lớn ở phía đàng xa. Cho thuyền đến gần chúng tôi mừng rỡ
reo hò. Đó là một cái giàn khoan dầu trên biển.
Dường
như đã quen thuộc với những chiếc thuyền vượt biên của người Việt
những người trên giàn khoan thảy xuống cho chúng tôi một số ít thực phẩm
cùng nước uống. Họ cũng tiếp tế cho chúng tôi một ít xăng kèm theo lời
khuyến khích. Đất liền đã gần trước măt. Một công nhân nào đó trên giàn
khoan còn cho tôi một trái táo nhưng tôi không thể nào ăn hơn một miếng
nhỏ. Bao tử của tôi dường như bé nhỏ lại sau bao ngày đói khát. Tôi lại
thiếp dần vào cõi mộng bên tai nghe tiếng anh Tuấn vỗ về. Cố lên ! Đừng
bỏ cuộc. Chúng ta đã gần đến bờ.
Tiếng
chim kêu làm tôi tỉnh giấc mở bừng mắt ra vào sáng hôm sau trước một
quang cảnh đẹp nhứt trong đời. Một bãi cát trắng phau trải dài với những
hàng dừa phất phơ trong gió. Qua màn sương còn sót lại của buổi sáng
tôi còn thấy những điểm chuyển động trên bờ mà khi thuyền tiến đến gần
hơn tôi nhận ra đó là những người vượt biên tị nạn đã đến trước đang dàn
hàng ngang chào đón chúng tôi. Những người Việt Nam tạm trú trên đảo
Paula Bidong thường dùng cái tập tục này hai lần. Một lần chào đó chia
vui người mới đến cùng để thăm hỏi tin tức người thân, chuyện quê hương
bỏ lại phía xa vời. Rồi thêm một lần chia tay với những người may mắn
được rời đảo đi định cư ở một phương trời nào đó. Có thể là U.S.A.,
France hay Germany ...
Trên đời không dễ mà trả
lời câu hỏi Hạnh Phúc nhứt lúc nào. Riêng tôi đó là cái giây phút này.
Hai anh em tôi đã sống còn. Tay trong tay tôi cùng anh Tuấn sánh bước
lên bờ, Mặt đất dưới chân tôi có vẻ như chuyển động theo từng bước chân
tiến về khu tập tiếp đón và tôi lại ngất đi vì kiệt sức.
Khi hồi tỉnh lại trong bịnh viện Sick Bay trên đảo tôi thấy anh Tuân tôi ngồi bên cạnh giường nhìn tôi an uỉ:
- Không sao đâu em.
Tôi khẽ im lặng gật đầu. Tuy là đã rời xa đất nước, cha mẹ , anh em nhưng anh em chúng tôi đang có nhau và chúng tôi sẽ sống.
Mâý mươi năm sau khi tôi viết những dòng chữ này thì anh Tuấn lại đi trước tôi thêm một lần nữa. Anh đã đi về cõi an bình.
Rồi thì anh em mình cũng sẽ gặp lại nhau thôi. Anh Tuân ơi.
JIMMY TRAN
No comments:
Post a Comment